Thị trường BĐS Tp.HCM đang tiềm ẩn nhiều rủi ro
Thị trường BĐS hiện vẫn chưa thực sự minh bạch, lành mạnh và bền vững do đang còn vướng 5 “điểm nghẽn” mà trước đó Hiệp hội đã kiến nghị và phân tích.
Tại các báo cáo và các văn bản kiến nghị gửi các cơ quan chức năng, Hiệp hội BĐS Tp.HCM liên tục đưa ra những cảnh báo về rủi ro của thị trường cũng như bày tỏ quan ngại đối với trên 500 dự án đang bị dừng triển khai trên địa bàn.
Hiệp hội BĐS Tp.HCM liên tục đưa ra những cảnh báo về rủi ro
tiềm ẩn của thị trường.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS Tp.HCM đã chia sẻ về vấn đề này:
Hiệp hội BĐS Tp.HCM đánh giá: mảng tối của thị trường BĐS Tp.HCM chính là hơn 500 dự án đang bị ngưng triển khai. Vậy có giải pháp nào để giải quyết tình hình này không, thưa ông?
Theo thống kê của các cơ quan chức năng, tồn kho BĐS tại Tp.HCM hiện vào khoảng 5.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, số dự án được kiểm tra để thống kê mới chỉ là hơn 40 dự án trong số 1.200 dự án trên địa bàn TP.
Những dự án bị ngưng triển khai mới thực sự là tảng băng chìm của lượng tồn kho. Các dự án bị dừng triển khai chủ yếu do thế chấp ngân hàng, vướng mắc trong GPMB, hạn chế về năng lực của chủ đầu tư.
Để giải quyết tình trạng này, Hiệp hội đã nhiều lần đề nghị sửa đổi Luật Kinh doanh BĐS, theo đó coi việc chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng một phần dự án là hoạt động kinh doanh bình thường giữa các nhà đầu tư với nhau.
Một thông tin tích cực là Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, điều này sẽ góp phần làm lành mạnh hoạt động tín dụng, xử lý hiệu quả tài sản bảo đảm mà phần lớn là BĐS, sẽ tạo thêm nguồn lực cho nền kinh tế và giúp tái khởi động các dự án đã bị thế chấp, bị ngừng triển khai trong nhiều năm qua.
Ngoài các dự án đình trệ, Hiệp hội cũng thường xuyên cảnh báo về những rủi ro của thị trường BĐS. Xin ông cho biết cơ sở để Hiệp hội đưa ra những cảnh báo này?
Nhìn toàn cục thị trường thì vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro, như tình trạng lệch pha cung – cầu, chủ yếu lệch về phân khúc BĐS cao cấp, du lịch nghỉ dưỡng; nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng và nguồn vốn xã hội (chủ yếu là của người mua nhà) đổ vào thị trường BĐS rất lớn, có xu hướng lệch vào một số doanh nghiệp lớn và vào phân khúc BĐS cao cấp, du lịch nghỉ dưỡng; đồng thời có sự gia tăng nhiều nhà đầu tư kinh doanh thứ cấp; trong lúc phân khúc thị trường NOXHi, nhà ở thương mại vừa túi tiền và có tính thanh khoản cao thì cung không đủ cầu.
Thị trường BĐS hiện vẫn chưa thực sự minh bạch, lành mạnh và bền vững do đang còn vướng 5 “điểm nghẽn” mà trước đó Hiệp hội đã kiến nghị và phân tích.
Ông đánh giá thế nào về diễn biến của thị trường từ nay đến cuối năm 2017?
Thị trường BĐS sẽ vẫn còn nằm trong chu kỳ tăng trưởng, nhưng sẽ tiếp tục chững lại so với năm 2016. Dự báo trong giai đoạn 2017 – 2020 sẽ có sự điều chỉnh lớn nhằm giải quyết tình trạng lệch pha cung – cầu hiện nay, giúp cho thị trường trở lại hướng phát triển lành mạnh, bền vững hơn.
Bên cạnh đó, xu thế hợp tác giữa các doanh nghiệp BĐS sẽ là tất yếu. Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, chuyển nhượng dự án sẽ càng phát triển mạnh hơn trước đây, nhất là sau khi Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu có hiệu lực thi hành.
Gần đây có thông tin Tổng thống Mỹ đã ban hành sắc lệnh cấm các tổ chức tài chính, ngân hàng Mỹ chuyển tiền ra nước ngoài theo dạng kiều hối. Điều này có tác động gì đến thị trường BĐS Việt Nam?
Hàng năm, tổng lượng kiều hối về Việt Nam đạt trên 10 tỷ USD, trong đó có khoảng 20% đổ vào BĐS. Đây là nguồn lực bổ sung quan trọng cho thị trường này.
Phần lớn kiều hối được gửi về nước là của kiều bào Việt Nam ở Mỹ. Với trường hợp trên thì khả năng kiều hối đổ vào BĐS sẽ sụt giảm so với trước đây. Từ đó, tác động đến đầu ra của thị trường BĐS nhưng không lớn do dòng vốn này chủ yếu để mua nhà ở cao cấp, BĐS nghỉ dưỡng mà nguồn cung các phân khúc này đang có nguy cơ dư thừa.
Mặt khác, ngoài dòng kiều hối chính ngạch thì kiều hối gửi theo con đường phi chính thức cũng có số lượng rất lớn. Nếu con đường chính thức bị đóng cửa, có thể lượng kiều hối gửi dạng phi chính thức sẽ tăng lên. Điều đáng ngại là vấn đề này có thể làm gia tăng rủi ro cho cả người nhận và người gửi tiền.
Leave a Reply